Khi nhiếp ảnh là một thú vui đắt đỏ

“Nhiếp ảnh giờ đã trở thành một thú vui đắt đỏ”, thầy của tôi đã nói vậy với một sinh viên chưa có những kiến thức nền nhất định về môn nghệ thuật này.
Nhiếp ảnh giữa thời đại này đã trở thành phổ biến cho mọi tầng lớp và đối tượng. Hình ảnh giờ đây trở nên bão hoà hơn bao giờ hết, với sự bùng nổ của mạng xã hội và thuật toán đề xuất các nội dung ngắn. Trong chỉ vài giây đến mấy chục giây, hình ảnh bạn đăng lên hoặc phải rất ấn tượng về mặt kĩ thuật, hoặc sẽ không ai thèm để ý đến. Tính chiêm nghiệm trong nhiếp ảnh, đặc biệt trong ảnh tư liệu kể chuyện do vậy cũng dần bị bỏ quên.
Mọi người thường có xu hướng nói nhiều về những thứ họ không hiểu. Trong nhiếp ảnh, điều này cũng không phải là ngoại lệ. Nếu bạn gặp một người lạ và họ biết được bạn là một sinh viên theo học nhiếp ảnh, rất có khả năng là bạn sẽ được xem những tấm hình trên Instagram kèm filter điên đảo hay những tấm ảnh đường phố xoá phông mù mịt ngay lập tức. Nếu không thì cũng sẽ là tác phẩm của những nhiếp ảnh gia phong cảnh và du lịch nặng tính sắp đặt thường được các trang báo đưa tin.

Công bằng mà nói, chính những người học sâu về nhiếp ảnh như chúng tôi đã góp phần vào công cuộc xây dựng một bãi rác hình ảnh trên mạng xã hội. Dễ hiểu thôi, bạn sẽ không kiếm sống được từ việc chụp ảnh tư liệu và ảnh kể chuyện, nhất là giữa thời đại mà nội dung ngắn lên ngôi bây giờ. Trừ khi bạn tự tin rằng bạn thuộc một trong số ít những người giỏi nhất trong một ngành sáng tạo cực kì cạnh tranh, khi mà số người tìm việc lớn hơn nhiều số lượng cơ hội hiện có. Lúc này đây, may ra bạn có thể sáng tạo hơn một chút với việc đề xuất hay thực hiện các đề tài từ các hãng thông tấn và các nhãn hàng lớn. Nếu bạn không nằm trong số những người giỏi nhất này, khả năng cao là bạn sẽ trở thành một người phục vụ thị hiếu của người xem.
Việc định nghĩa cho một nghệ thuật thị giác này cũng khá mơ hồ, khi chính những người giữ vai trò giảng viên tại các trường đào tạo nhiếp ảnh cũng có nhiều xung đột với nhau. Một người thầy dạy về nhiếp ảnh film của tôi từng đi đến triển lãm của các sinh viên nhiếp ảnh thuộc khoa “Nhiếp ảnh liên ngành”. Ông đã phì cười khi nhìn thấy rất nhiều đồ vật và cây cối xuất hiện trong triển lãm, áp đảo hoàn toàn số lượng những bức ảnh in được treo trên tường. Điều này vừa buồn cười, nhưng cũng là điều tôi tự hào khi nói đến bản thân hay những người xuất phát từ trường lớp nhiếp ảnh chuyên sâu. Ai ai cũng có những lý tưởng, ngày ngày nghĩ về những đề tài mang tính giải cứu thế giới, và rất khó để thay đổi được thế giới quan nghệ thuật của những người cứng đầu như chúng tôi.

Tôi đọc được một câu chuyện về một nhiếp ảnh gia và nghệ sĩ, người đã làm nhiều công việc chân tay khác nhau, bao gồm cả vị trí bảo vệ ở một bảo tàng nghệ thuật, chỉ để có tiền để duy trì những dự án nghệ thuật cá nhân của mình. Tôi không lạ với những câu chuyện như vậy. Bạn bè tôi cũng đang làm 2-3 công việc bán thời gian khác nhau để nuôi những dự án của họ, hay lớn hơn là có tiền để đi học những workshop nghệ thuật, rồi đi nhiều nơi trên thế giới để làm triển lãm. Cần nói thêm rằng những người này thừa tài năng để kiếm được một công việc văn phòng, ngồi bàn giấy ổn định, nhưng lý tưởng đã không để họ làm vậy. Tôi thì hèn hơn, chọn con đường an toàn là ngồi bàn giấy, dù vẫn đang ấp ủ những dự án cá nhân khác nhau trong tương lai, nhưng cơm áo gạo tiền đang tạm thời níu tôi lại.
Nhiếp ảnh giờ đã là một thú vui xa xỉ. Trong các hội nhóm hay những buổi trò chuyện ở cafe, người ta nói mãi về máy móc và kĩ thuật, về những thứ là bề nổi ở nhiếp ảnh, nơi mà ai cũng nghĩ rằng đấy là mọi điều về môn thị giác này. Tôi thường chọn cách mỉm cười và giữ im lặng. Nhiếp ảnh giờ đây đã được dân chủ hoá, ai ai cũng là một nhiếp ảnh gia tự xưng. Những người như chúng tôi dù vậy vẫn luôn cố gắng giữ cho mình một lý tưởng, rằng thứ hình ảnh chiêm nghiệm vẫn có một thị trường ở ngoài kia, và việc xoay sở để trở nên khác biệt phần nào định hình chính kiến của chúng tôi về bộ môn nghệ thuật này.

Comments are closed.